(Dân trí) – Trong nghị quyết Trung ương 8 về đã có nêu thực trạng chất lượng, hiệu quả thấp của giáo dục nghề nghiệp. Đã có ý kiến táo bạo đề xuất rằng phải tìm biện pháp “Khoán 10” mới mong đổi mới căn bản và toàn diện.
Nhiều chuyên gia giáo dục, nhà khoa học tại Hội thảo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam trước yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện do Viện Sư Phạm Kỹ Thuật (Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM) tổ chức hôm 14/3 đều cho rằng giáo dục nghề nghiệp hiện nay còn quá nhiều bất cập.
Ưu thế “nhân công rẻ” hay thực chất là vì nhân lực trình độ thấp
Viện dẫn cho những bất cập của giáo dục nghề nghiệp hiện nay, PGS.TS Ngô Anh Tuấn, Viện Trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật đã đưa ra những con số thống kê cho thấy tỷ trọng lao động đã qua đào tạo ở nước ta rất thấp. Trong tổng số hơn 51 triệu người trong độ tuổi lao động thì chỉ 7,3 triệu người đã được đào tạo. Còn 86,7% dân số trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, nhất là lao động nông thôn.
Trong số những người đang theo học ở các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì số theo học trình độ sơ cấp là 1,7%, trung cấp 20,5%, cao đẳng 24,5% và ĐH trở lên là trên 53%. Từ con số này cho thấy cơ cấu hết sức bất hợp lý trong việc học nghề nghiệp hiện nay. Thế nhưng khi xét ở khía cạnh phân luồng sau THCS thì cũng bộc lộ nhiều thất bại khi số học sinh nếu không lên học THPT thì cũng chỉ có chưa đến 3% vào học nghề và 1,8% vào học trung cấp chuyên nghiệp (TCNN). Như vậy, hàng năm có đến 300.000 người 15 tuổi học hết THCS không tiếp tục học tập. Hệ quả tất yếu của những vấn đề đó là năng suất lao động và thu nhập của lao động nước ta đều rất thấp. Trong khi số lượng vào học ĐH chiếm đa số thì nghịch lý là tỉ lệ thất nghiệp của người học ĐH lại cao hơn các bậc đào tạo khác.
“Những số liệu thống kê trên đáng ra đã là sự cảnh báo từ lâu nhưng không hiểu sao vẫn để diễn ra và chưa hề có giải pháp để đối phó. Giáo dục nghề nghiệp đang đối mặt với các vấn đề như các trường TCCN, trung cấp nghề, cao đẳng nghề rất khó tuyển sinh. Xu hướng nâng cấp bậc đào tạo như là một cứu cánh để tồn tại, nhưng thực tế việc “cao đẳng hóa, đại học hóa” chỉ là giải pháp tạm thời cho một số trường. Ưu thế “nhân công rẻ” ngày càng mất đi và bộc lộ rõ thực chất là “nhân lực chất lượng thấp”, ông Tuấn đặt vấn đề.
Vấn đề chồng chéo, thiếu liên thông trong quản lý nhà nước và phát triển các trường nghề cũng được nhiều đại biểu nhắc lại như là một nguyên nhân khiến cho giáo dục nghề nghiệp khó đổi mới. Cùng sứ mạng giáo dục nghề nghiệp nhưng nước ta vừa có trường TCCN thuộc Vụ giáo dục chuyên nghiệp (Bộ GD-ĐT) vừa có các trường nghề thuộc Tổng cục dạy nghề (Bộ Lao động – Thương Binh – Xã hội) với chương trình đào tạo, tiêu chuẩn giáo viên lại khác nhau. Nhu cầu liên thông ở các trường chuyên nghiệp và dạy nghề chỉ được xem là điều kiện để thu hút học sinh vào học, đảm bảo lợi nhuận của các cơ sở đào tạo mà không phải vì mục đích liên thông để đào tạo nên một người hoàn chỉnh.
Giải pháp “Khoán 10” cho giáo dục nghề nghiệp
Trước thực trạng việc phân luồng hiện nay thất bại, GS.TS Nguyễn Lộc – Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam ra rằng “đặt dấu hỏi cho sự tồn tại của giáo dục chuyên nghiệp”. GS.TS Nguyễn Lộc đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp táo bạo mà theo ông là đi tìm “Khoán 10” cho giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam. “Đầu tiên là đổi mới hệ thống giáo dục thuộc khâu sau trung học bằng cách bỏ sơ cấp, trung cấp nghề và TCCN vì nó không còn thu hút nữa. Sát nhập, chuyển đổi và nâng cấp các trường này thành trường cao đẳng trong đó có thể đào tạo nhiều trình độ bằng cấp nghề nghiệp đến cử nhân cao đẳng. Đồng thời cân nhắc các chương trình 9+ để tiếp nhận người tốt nghiệp THCS”, ông Lộc đề xuất.
Bên cạnh đó, GS.TS Lộc cũng cho rằng cần tạo sự liên thông thực sự giữa cao đẳng và đại học; cần cơ chế khuyến khích đồng thời bắt buộc nhằm phát triển liên thông chứ không để các trường tiếp tục tự cô lập. Ngoài ra, cũng cần tìm giải pháp “khoán 10” gắn đào tạo nghề với doanh nghiệp. “Chưa có nước nào lạ như nước ta là đào tạo nghề tại doanh nghiệp lại hầu như không phát triển trong khi ở các nước hình thức này chiếm tới 60-70%. Loại hình này có sức hấp dẫn lớn vì công ăn việc làm đảm bảo, đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp ở mức độ cao nhất nên cần có luật pháp bắt buộc cũng như những điều kiện ưu đãi để phát triển”, theo ông Lộc.
Lê Phương